Song an Châu
Tổng số bài gửi : 665 Join date : 10/12/2009
| Tiêu đề: Thi Sĩ VŨ HOÀNG CHƯƠNG Sun Jan 13, 2013 6:05 am | |
| Thi Sĩ VŨ HOÀNG CHƯƠNGEm ơi lửa tắt bình khô rượu Ðời vắng em rồi say với ai! Vũ Hoàng Chương Thơ ông đầy men rượu trong thi phẩm đầu tay: Thơ Say. Mình không có kinh nghiệm say thì cảm không hết được ý thơ của ông đâu. Dầu vậy, cái men say ấy vẫn cứ lan sang lòng mình như thường. Ông là một thi sĩ nghiện ngập. Người ta nói thế. Mà tôi cũng biết thế khi tôi đến nhà thi sĩ Mộng Tuyết (Thất Tiểu Muội), một người bạn thơ của ông. Có một thời gia đình ông tá túc nơi nhà nữ sĩ Mộng Tuyết. Không nhớ khoảng thời gian nào, sau năm 1975; lúc đó ông ở tù ra, một thời gian ngắn rồi mất. Tôi không được gặp ông. Chỉ nghe nữ sĩ Mộng Tuyết nói, kể về ông, thương tiếc một con người tài hoa, không làm sao sống thích nghi với xã hội mới. Theo nữ sĩ Mộng Tuyết kể sơ, ông bị công an kêu lên kêu xuống tra vấn hạch hỏi liên tục; còn bị giam nhốt để "cải tạo" tư tưởng lẫn cái bệnh nghiện của ông nữa. Sau ông bệnh quá, công an phải tha về, sống những ngày cuối cùng với vợ con rồi mất tại Sài-gòn. Người ta nhớ ông nhất ở hai câu: “Em ơi lửa tắt bình khô rượu Ðời vắng em rồi say với ai!”
Bốn chữ đầu của câu sau được ông lấy làm tựa đề cho bài thơ dài say tiễn cuộc tình chia xa.
Ðời vắng em rồi
Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu Lênh đênh thương nhớ giạt trời Âu Thôi rồi - tay nắm tay lần cuối Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau. Trai lỡ phong vân gái lỡ tình Này đêm tri ngộ xót điêu linh Niềm quê sực thức lòng quan ải Giây phút dừng chân cuộc viễn trình Tóc xõa tơ vàng nệm gối nhung Ðây chiều hương ngát lả hoa dung Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo Mơ kiếp nào xưa đã vợ chồng. Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay Buồn mưa trăng lạnh nắng hoa gầy Nắng mưa đã trải tình nhân thế Lưu lạc sầu chung một hướng say Gặp gỡ chừng như truyện Liêu Trai Ra đi chẳng hứa một ngày mai Em ơi lửa tắt bình khô rượu Ðời vắng em rồi say với ai Phương Âu mờ mịt lối quê nàng Trăng nước âm thầm vạn dặm tang Ghé bến nào đây người hải ngoại Chiều sương mặt bể có mơ màng. Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không Mà đây lòng trắng một mùa đông Tương tư nối đuốc thâu canh đợi Thoảng gió trà mi động mấy bông. Người tình đi xa. Tận trời Âu. Cách chia nhau mà chẳng hứa được điều gì chắc chắn. Ngồi đây chuốc rượu mà uống thâu canh. Nghĩ tưởng đoạn đường dài em đi. Phương ấy trời đã rơi tuyết chưa mà sao nơi đây, lòng tê dại như phủ cả một màu tang. Màu trắng ở đây là màu trắng của tang, của niềm tê tái giá băng, của niềm cô đơn vô tận. Ðời vắng em rồi, anh vẫn say. Có em thì uống say với em cuộc tình nồng. Vắng em thì say nỗi niềm cô độc. Say với những cốc rượu đắng, giết cả tâm hồn. Cố tình say như thế để mà quên, để nén niềm đau cứ chực dâng trào. Chỉ khi hết say rồi mới nằm khóc được tình mộng ban đầu.
Một phút ngừng say Bấc trĩu hoa đèn nhựa úa nâu Phai say nằm khóc mộng ban đầu Bước chân song sóng vòng tay mở Dạo ấy người ơi xa lắm đâu Chớm nụ tiếc cho tình quá ngát Mà thương trời bể quá cao sâu Tiếc thương lẻn khói vào tâm trí Mưa gió tàn đêm lộng quán sầu. Một thi sĩ chung tình đến thế! Suốt một đời chỉ sống với thơ, rượu, bàn đèn và tình yêu ban đầu. Cuộc tình ấy không bao giờ thành, dù ông đã chờ đợi, ước mơ... với bao nhiêu năm tháng mỏi mòn trong men say và nghiện ngập. Ðã có lúc ông tìm quên trong những quán rượu, uống say, nhảy múa với những vũ nữ, lảo đảo quay cuồng theo điệu nhạc... vừa cám cảnh thân phận nhạt nhòa hương phấn của người, vừa đau xót cuộc tình không phai mà không thành của mình. Dù nhảy nhót, uống say thâu đêm suốt sáng, cả một "thành sầu" như tảng núi, vẫn kiên cố nằm ì trong lòng, chẳng làm sao phá vỡ đi được. Niềm đau, nỗi sầu vẫn còn đó. Ông nói với người vũ nữ, mà cũng là nói với ông: sầu này không thể nào phai đi được. Ðây là bài luân vũ tuyệt nhất của một gã tình si thở tràn hơi rượu:
Say Ði Em
Khúc nhạc hồng êm ái Ðiệu kèn biếc quay cuồng Một trời phấn hương Ðôi người gió sương Ðầu xanh lận đận, cùng xót thương, càng nhớ thương Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo? Hồn ngã lâu rồi nhưng chân còn dẻo Lòng trôi nghiêng mà bước vẫn du dương Lòng thiêng tràn hết yêu đương Bước chân còn nhịp nghê thường lẳng lơ... Ánh đèn tha thướt Lưng mềm não nuột dáng tơ Hàng chân lả lướt Ðê mê hồn gửi cánh tay hờ Âm ba gờn gợn nhỏ Ánh sáng phai nhạt dần Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân Lui đôi vai, tiến đôi chân Riết đôi tay, ngả đôi chân Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ Hãy thêm say còn đó rượu chờ ta Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa Tay mềm mại bước chân còn chưa chuếnh choáng Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời phóng đãng Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men Say đi em, say đi em Say cho lơi lả ánh đèn Cho cung bậc ngả nghiêng điên rồ xác thịt Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết Ta quá say rồi Sắc ngã màu trôi Gian phòng không đứng vững Có ai ghì hư ảnh sát kề môi? Chân rã rời Quay cuồng chi được nữa Gối mỏi gần rơi Trong men cháy giác quan vừa bén lửa Say không còn biết chi đời Nhưng em ơi Ðất trời nghiêng ngửa Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ Ðất trời nghiêng ngửa Thành sầu không sụp đổ, em ơi! Ðời ông là cả một chuỗi đợi chờ. Ðợi chờ cái điều không thể xảy ra, nhưng vẫn cứ đợi, vẫn cứ chờ. Ðôi lúc nản lòng, gần như không còn tin tưởng nơi người tình nữa, như trong bài "Cánh Buồm Trắng"; ở đó ta thấy sự mỏi mòn, gần như cạn kiệt của ông, và lời thơ đã có giọng phiền trách:
....... Em ơi ta trằn trọc Khắc khoải đã bao đêm Nhớ mong rồi ngờ vực Ðến cả tấm tình em Vì những điều mơ ước Của tuổi trẻ yêu đời Thắm tươi như ánh nắng Ðã phai rồi em ơi, Giấc uyên ương liền cánh Mộng trăm năm lứa đôi Êm đềm như tiếng hát Ðã tan rồi em ơi Trong lo buồn chán ngán Trong hoàn cảnh éo le Tuy ta còn nhận rõ Lòng em yêu xưa kia Nhưng mai ngày bóng tối Thẫm mãi trên đường đi Biết đâu còn có nữa Lòng em yêu xưa kia Ta đâu còn giữ được Lòng em yêu như xưa Em ơi cánh buồm trắng Sắp biến trong đêm mờ. Ông ví cuộc tình mà ông chờ đợi như cánh buồm trắng ngoài dặm khơi. Mỗi ngày ông quan sát, chờ đợi cánh buồm ấy. Cánh buồm ấy không bao giờ quay về bến nhưng nó luôn thoáng hiện lúc gần lúc xa, nhấp nhô theo sóng nước; dầu đã có những lúc nó khuất dạng ngoài dặm xa, ông vẫn ôm hy vọng là nó không bao giờ mất, và đinh ninh một ngày nào đó nó sẽ quay lại. Chỉ khi nản lòng lắm ông mới bộc lộ vẻ lo sợ về viễn ảnh là cánh buồm trắng sẽ thực sự "biến trong đêm mờ." Nhưng dầu thế nào thì ông vẫn tiếp tục chờ đợi, chờ đợi. Bao năm phòng lạnh chờ đợi người tình đầu. Không thấy ai ghé thăm, ngoại trừ ánh trăng. May mà hãy còn trăng, hãy còn thơ. Một đời tình, một đời thơ. Một cuộc tình thật sầu thảm mà cũng vừa bi tráng. Bi tráng nơi sức chịu đựng kiên trì của một người lặng lẽ chờ đợi, gào thét chờ đợi, say khướt chờ đợi... mà không thấy sự đáp trả nào trong suốt ba mươi năm:
Chờ đợi hoài công
Ta đợi em từ ba mươi năm Uống hoa phong nhụy hoài trăng rằm Heo may chớm đã lên mùa gió Ngăn ngắt chiêm bao lạnh chiếu nằm Cúc tả tơi vàng mộng xác xơ Hiên sương ngõ lá vẫn trông chờ Ðêm dài quạnh hé đôi song lớn Nguyệt đọng vòng tay úa giấc mơ Ngai trống vàng son lợt sắc rồi Lòng ta Hoàng hậu chẳng về ngôi Hồ ly không hiện người không đến Chỉ ánh trăng vào khuôn cửa thôi Hiu hắt tình trai một kiếp suông Mênh mông nệm gối rét căn buồng Lệ sa bạch lạp ngàn đêm trắng Thơ vút sầu say rượu nhập cuồng Ðã mấy canh khuya nụ ngát nhài Kết chưa thành mộng ý Liêu Trai Lung linh nguyệt thấm vàng trang sách Ðợi chẳng bừng sen nhịp gót ai Thôi thế hoài thơm tuổi dịu hiền Cánh khô mầm lụi trót hoa niên Chương đài, ca quán, ôi hồng liễu Nửa cuộc trần gian lợm yến diên Khắp đã nghe tìm mỏi núi sông Ðâu vương vó ngựa, gió mui hồng? Gió sương giờ vẫn buồng đây lạnh? Em hỡi! Phương nào em có không? Phải ba mươi năm sau, ông mới biết là hoài công. Sự chờ đợi chẳng kết quả gì. Nhưng lời thơ, và tình yêu của ông thì bất tử. Ðó là một vài bài thời tiền chiến. Về sau, thơ ông không say men rượu nữa, mà say trong lẽ huyền vi, trong Thiền. Những bài thơ rất siêu thoát, xuất thần. Ðây bài:
Nguyện Cầu
Ta còn để lại gì không? Kìa non đá lở, này sông cát bồi. Lang thang từ độ luân hồi U minh nẻo trước xa xôi dặm về. Trông ra bến hoặc bờ mê Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương Ta van cát bụi bên đường Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này. Ðể ta tròn một kiếp say Cao xanh liều một cánh tay níu trời. Nói chi thua được với đời Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu. Tâm hương đốt nén linh sầu Nhớ quê dằng dặc, ta cầu đó thôi! Ðêm nào ta trở về ngôi Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian. Một phen đã nín cung đàn Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh âm. Và bài Lửa Từ Bi, ông ghi là Kính dâng lên Bồ tát Quảng Ðức, như bài điếu văn bất hủ mà nhiều người trong giới Phật giáo thuộc lòng: Lửa! lửa cháy ngất tòa sen!
[i]Tám chín phương nhục thể trần tâm hiện thành THƠ, quỳ cả xuống. Hai Vầng Sáng rưng rưng Ðông Tây nhòa lệ ngọc chắp tay đón một Mặt-trời-mới-mọc ánh Ðạo Vàng phơi phới đang bừng lên, dâng lên. Ôi! Ðích thực hôm nay trời có mặt; giờ là giờ Hoàng đạo nguy nga! Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt nhìn nhau: tình Huynh đệ bao la. Nam mô Ðức Phật Di Ðà Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay? Thương chúng sinh trầm luân bể khổ NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây; gọi hết lửa vào xương da bỏ ngõ, Phật Pháp chẳng rời tay. Sáu ngả Luân hồi đâu đó mang mang cùng nín thở, tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh xe quay. Không khí vặn mình theo khóc òa lên nổi gió; NGƯỜI siêu thăng giông bão lắng từ đây. Bóng NGƯỜI vượt chín tầng mây, nhân gian mát rợi bóng cây Bồ Ðề. Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi; chỗ NGƯỜI ngồi: một thiên thu tuyệt tác trong vô hình sáng chói nét Từ Bi. Rồi đây, rồi mai sau, còn chi? ngọc đá cũng thành tro lụa tre dần mục nát với Thời gian lê vết máu qua đi. Còn mãi chứ! Còn Trái-Tim-Bồ-Tát gội hào quang xuống tận ngục A-tỳ. Ôi ngọn lửa huyền vi! thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác từ cõi Vô minh hướng về Cực lạc; vần điệu của thi nhân chỉ còn là rơm rác và chỉ nguyện được là rơm rác, THƠ cháy lên theo với lời Kinh tụng cho Nhân loại hòa bình trước sau bền vững tình Huynh đệ này. Thổn thức nghe lòng trái Ðất mong thành quả Phúc về cây; nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật; đồng loại chúng con nắm tay nhau tràn nước mắt, tình thương hiện Tháp-Chín-Tầng xây. (Sài-gòn tháng 5, Phật lịch 2507, tháng 6-1963)
Có lúc thơ ông thể hiện vẻ hùng tráng ngất trời. Chẳng hạn ở Bài Ca Sông Dịch: Bài Ca Sông Dịch
Ai tráng sĩ bao năm mài gươm dưới nguyệt Còn tưởng nghe hồn thép múa sông sâu Kinh Kha hề Kinh Kha! Vinh cho ngươi hề ba nghìn tân khách Tiễn ngươi đi, tiếng trúc nhịp lời ca. Biên thùy trống giục, Nẻo Tần sương sa, Gió thê lương quằn quại khói chiêu hà. Tám phương trời khói lửa, Một mũi dao sang Tần. Ai trách Kinh Kha rằng việc người để lỡ Ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân. Ai tiếc đường gươm tuyệt diệu Mà thương cho cánh tay thần. Ta chỉ thấy Tơi bời tướng sĩ, thây ngã hai bên. Một triều rối loạn, ngai vàng xô nghiêng. Áo rách thân run hề ghê hồn bạo chúa, Hùng khí nuốt sao ngưu hề nộ khí xung thiên. Một cánh tay đưa mà danh lừng vạn cổ, Hiệp sĩ Kinh Kha hề ngươi thác đã nên!... (Tâm Sự Kẻ Sang Tần)
Ðôi khi thơ ông u uất nỗi sầu chung của đất nước và thời thế, muốn vươn đến những cõi cao rộng xa xăm khác. Mấy mươi năm, số phận nhỏ nhoi rồi bệnh tật của ông, không vươn khỏi những biến động của xã hội, cũng như gông cùm xiềng xích của chế độ cộng sản, nhưng thơ ông đã từ lâu, và mãi mãi, như cánh phượng hoàng (ý của Viên Linh), chạm đến cái chỗ chóp đỉnh cao vời của nền thi ca Việt-nam. Ở nơi chốn ấy, không ai trói buộc ông được. Một mình tung cánh giữa trời cao rộng. Ðây là một vài bài khác nữa của ông, trích từ Chiêu Niệm Văn Chương - Vũ Hoàng Chương của Viên Linh:
Phương Xa
Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng Xô về Ðông hay giạt tới phương Ðoài. Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi. Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh. Bể vô tận sá gì phương hướng nữa Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh. Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ Một đôi người u uất nỗi trơ vơ. Ðời kiêu bạc không dung hồn giản dị Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ. Men đã ngấm, bọn ta chờ nắng tắt Treo buồm cao, cũng cao tiếng hò khoan Gió đã nổi, nhịp trăng chiều hiu hắt Thuyền ơi thuyền, theo gió hãy cho ngoan. Mười Hai Tháng Sáu
Trăng của nhà ai trăng một phương Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường Ờ đêm tháng sáu mười hai nhỉ Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương. Là thế là thôi là thế đó Mười năm thôi thế mộng tan tành Mười năm trăng cũ ai nguyện ước Tố của Hoàng ơi Tố của Anh. Tháng sáu mười hai - từ đấy nhé Chung đôi - từ đấy nhé lìa đôi. Em xa lạ quá đâu còn phải Tố của Hoàng xưa Tố của tôi. Men khói đêm nay sầu dựng mộ Bia đề tháng sáu ghi mười hai. Tình ta ta tiếc - cuồng - ta khóc Tố của Hoàng nay Tố của Ai. Tay gõ vào bia mười ngón rập Mười năm theo máu hận trào rơi. Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp Khúc Cổ Bồn Ca gõ hát chơi. Kiều Thu hề Tố em ơi Ta đang lửa đốt tơi bời Mái Tây Hàm Ca nhịp gõ khói bay Hồ Xừ Xang Xế... bàn tay điên cuồng. Kiều Thu hề trọn kiếp thương Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô. Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên. Kiều Thu hề Tố hỡi em Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bùng. Xế Hồ Xang... khói mờ rung Nhịp vươn sầu tỏa năm cung ngút ngàn. Một trong vài bài thơ ông làm trong tù: Nét Ðau Mặt Chữ
Chẳng dùng chi được văn tài Thân này lụy áo cơm ai bất ngờ Phút giây chết điếng hồn thơ Nét đau mặt chữ đến giờ còn đau. Chắc gì ba trăm năm sau Ðã ai vào nổi cơn sầu nằm đây Nếu không cơm áo đọa đầy Nhủ thân nào thịt xương nầy bỗng dưng. Chết theo vào đến lưng chừng Say từng mảnh rớt mê từng khúc rơi Nửa chiều say ngất mê tơi Khúc đâu lơ láo một đời Thi Vương.
Vũ Hoàng Chương | |
|